Tổ Bá Trượng : thiền tông trung hoa .
Sau đây, mời các bạn cùng thầy Nên phong thủy tìm hiểu về Tổ Bá Trượng – một vị thiền tông của Trung Hoa.
Tổ Bá Trượng là ai ?
Ngài họ Vương, sinh năm Canh Thân (720 T.L), niên hiệu Khai Nguyên thứ 8 triều vua Đường Huyền Tông, tại Trường Lạc, Phước Châu.
Nhân duyên với Phật.
Lúc bé theo mẹ đến chùa lễ Phật, Ngài chỉ tượng Phật hỏi:
– Đây là gì?
Mẹ bảo:
– Là Phật.
Ngài nói:
– Hình dung không khác với người, con sau cũng sẽ làm Phật.
Tổ Bá Trượng xuất gia.
Ngài xuất gia khi còn để chỏm và chuyên trì giới định tuệ. Sau Ngài đến tham học với Mã Tổ (Thiền Sư Đạo Nhất) và được cử làm thị giả. Mỗi khi thí chủ đem trai phạn đến, Ngài vừa giở lồng bàn ra, Mã Tổ liền cầm nửa cái bánh chỉ chúng hỏi: “Ðây là gì?” Như thế mãi đến ba năm.
Một hôm, Ngài theo hầu Mã Tổ đi dạo, thấy một bầy vịt trời bay qua. Mã Tổ hỏi:
– Ðó là cái gì?
Sư thưa:
– Con vịt trời.
– Bay đi đâu?
– Bay qua.
Mã Tổ bèn nắm lỗ mũi Ngài kéo mạnh, đau quá Ngài la thất thanh. Mã Tổ bảo:
– Lại nói bay qua đi.
Ngay câu ấy, Ngài tỉnh ngộ.
Trở về phòng thị giả, Ngài khóc lóc rất thống thiết. Những người đồng phòng nghe, hỏi:
– Huynh nhớ cha mẹ phải chăng?
Ngài đáp:
– Không.
– Bị người ta mắng chửi chăng?
– Không.
– Tại sao khóc?
– Lỗ mũi tôi bị Hòa Thượng kéo đau thấu xương.
– Có nhân duyên gì không khế hội?
– Huynh hỏi Hòa Thượng đi.
Những vị ấy đến hỏi Mã Tổ:
– Thị giả Hải có nhân duyên gì chẳng khế hội, ở trong phòng khóc, xin Hòa Thượng vì chúng con nói.
Mã Tổ bảo:
– Y đã khế hội, các ngươi tự hỏi lấy y.
Các vị ấy về phòng hỏi:
– Hòa Thượng nói huynh đã hội, bảo chúng tôi về hỏi huynh.
Ngài bèn cười: Hả… hả…
Các vị ấy bảo:
– Vừa rồi khóc, sao bây giờ cười?
Ngài đáp:
– Vừa rồi khóc, bây giờ cười.
Các vị ấy mờ mịt không hiểu.
Hôm sau, Mã Tổ vừa lên tòa, Chúng nhóm họp xong, Ngài bước ra cuốn chiếu. Mã Tổ xuống tòa, Ngài theo sau đến phương trượng.
Mã Tổ hỏi:
– Ta chưa nói câu nào, tại sao ngươi cuốn chiếu?
Ngài thưa:
– Hôm qua bị Hòa Thượng kéo chót mũi đau.
– Hôm qua ngươi để tâm chỗ nào?
– Chót mũi ngày nay lại chẳng đau.
– Ngươi hiểu sâu việc hôm qua.
Ngài làm lễ, lui ra.
oOo
Ðứng hầu Mã Tổ, Ngài thấy phất tử (đồ quét bụi) ở góc giường, bèn hỏi:
– Tức đây dùng, lìa đây dùng?
Mã Tổ bảo:
– Về sau ngươi mở miệng sẽ lấy cái gì vì người?
Ngài cầm phất tử dựng đứng.
Mã Tổ hỏi:
– Tức đây dùng, lìa đây dùng?
Ngài để phất tử lại chỗ cũ. Mã Tổ nghiêm chỉnh nạt một tiếng, đến ba ngày Ngài còn điếc tai.
oOo
Về sau, Ngài về ở núi Ðại Hùng tại Hồng Châu. Ngọn núi này cao chót vót đến trăm trượng nên thời nhân gọi Ngài là Bá Trượng. Bốn phương học giả đua nhau đến tham học rất đông. Trong số học chúng có Thiền Sư Hy Vận và Linh Hựu là hàng đầu.
Một hôm, Ngài bảo Chúng:
– Phật pháp không phải là việc nhỏ. Lão tăng xưa bị Mã Tổ một nạt đến ba ngày lỗ tai còn điếc.
Hy Vận nghe nói bất giác le lưỡi.
Ngài bảo:
– Con về sau thừa kế Mã Tổ chăng?
Hy Vận thưa:
– Không. Nay nhân Hòa Thượng nhắc lại, con được thấy Mã Tổ đại cơ, đại dụng, nhưng vẫn không biết Mã Tổ. Nếu con thừa kế Mã Tổ, về sau mất hết con cháu của con.
Ngài bảo:
– Ðúng thế! Đúng thế! Thấy bằng với thầy là kém thầy nửa đức, thấy vượt hơn thầy mới kham truyền trao. Con hẳn có cái thấy vượt hơn thầy.
Hy Vận liền lễ bái.
oOo
Lại một hôm, có vị Tăng vừa đi vừa khóc đi thẳng vào pháp đường.
Ngài hỏi:
– Làm gì?
Tăng thưa:
– Cha mẹ đồng thời chết, thỉnh Thầy chọn ngày.
Ngài bảo:
– Ngày mai đồng thời chôn.
oOo
Ngài mỗi khi thượng đường dạy Chúng có một ông già theo Chúng nghe pháp. Hôm nọ, Chúng ra hết chỉ còn ông già không đi. Ngài hỏi:
– Ông là người gì?
Ông già thưa:
– Con chẳng phải người. Thời quá khứ thuở Đức Phật Ca-diếp, con làm Tăng ở núi này, nhân học trò hỏi: “Người đại tu hành lại rơi vào nhân quả chăng?” Con đáp: “Không rơi vào nhân quả”. Do đó, đến năm trăm đời đọa làm thân chồn. Nay thỉnh Hòa Thượng chuyển một câu nói để con thoát khỏi thân chồn.
Ngài bảo:
– Ông hỏi đi.
Ông già hỏi:
– Người đại tu hành có rơi vào nhân quả chăng?
Ngài đáp:
– Không lầm nhân quả.
Ngay câu nói ấy, ông già đại ngộ, làm lễ thưa:
– Con đã thoát thân chồn. Con ở sau núi, dám xin Hòa Thượng lấy theo lễ Tăng chết mà tống táng con.
Ngài vào trong kêu Duy-na đánh kiểng bảo chúng ăn cơm xong đưa đám một vị Tăng, đại chúng nhóm nhau bàn tán “Đại chúng đều mạnh, nhà dưỡng bệnh không có người nào nằm, tại sao có việc này?”
Sau khi cơm xong, Ngài dẫn chúng đến hang núi phía sau, lấy gậy khơi lên thấy xác một con chồn vừa chết, bèn làm lễ thiêu như vị Tăng.
oOo
Ngài thượng đường dạy Chúng:
– Linh quang chói sáng vượt khỏi căn trần, thể bày chân thường không cuộc văn tự, tâm tánh không nhiễm vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng duyên tức như như Phật.
Có vị Tăng hỏi:
– Thế nào là pháp yếu Ðại Thừa đốn ngộ?
Ngài đáp:
– Các ngươi trước dứt sạch các duyên, thôi hết muôn việc, tất cả các pháp thiện cùng chẳng thiện, thế gian và xuất thế gian chớ ghi nhớ, chớ duyên niệm, buông bỏ hết khiến tâm tự tại. Tâm như cây đá không có phân biệt, không có chỗ đi. Ðất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự hiện. Như mây tan thì trăng hiện. Chỉ dứt tất cả thứ vin theo, tình cảm tham sân, ái thủ, nhơ sạch đều hết. Ðối với ngũ dục, bát phong không bị thấy nghe, hiểu biết ràng buộc, không bị các cảnh làm mê hoặc, tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, ấy là người giải thoát.
Ðối với tất cả cảnh, tâm không yêu không loạn, không thu nhiếp không phân tán, thấu tất cả thanh sắc không bị dính ngại, gọi là Ðạo Nhân. Thiện ác phải quấy đều không dùng, không mến một pháp, cũng không bỏ một pháp, gọi là người Ðại Thừa.
Không bị tất cả pháp thiện ác, không hữu, nhơ sạch, hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, phước đức trí tuệ ràng buộc, gọi là Phật tuệ. Phải quấy, tốt xấu, đúng lý phi lý, các tình cảm thấy biết hết sạch, không thể trói buộc, nơi nơi đều được tự tại, gọi là Bồ-tát mới phát tâm liền lên địa vị Phật.
Tăng hỏi:
– Ðối tất cả cảnh làm sao tâm được như cây đá?
Ngài đáp:
– Tất cả pháp vốn chẳng tự nói không, chẳng tự nói sắc, chẳng nói phải quấy, nhơ sạch, cũng không có tâm trói buộc người, chỉ tự người hư vọng tính chấp, tạo bao nhiêu thứ hiểu, khởi bao nhiêu thứ thấy biết, sanh bao nhiêu thứ yêu sợ. Cần phải nhận rõ các pháp không tự sanh, đều do một niệm vọng tưởng điên đảo của mình chấp tướng mà có. Biết tâm cùng cảnh vốn không đến nhau thì ngay nơi đó là giải thoát, mỗi mỗi pháp ngay nơi đó là lặng lẽ, ngay nơi đó là đạo tràng.
Lại, Tánh sẵn có, không thể gọi tên, xưa nay không phải phàm không phải thánh, chẳng phải nhơ sạch, chẳng phải hữu không, cũng chẳng phải thiện ác, cùng các pháp nhiễm hợp nhau, gọi là người trời Nhị Thừa. Nếu tâm nhơ sạch hết, chẳng trụ nơi ràng buộc chẳng trụ nơi giải thoát, không tất cả tâm lượng hữu vi vô vi, phược thoát, ở nơi sanh tử tâm vẫn tự tại. Hoàn toàn không hòa hợp với uẩn, giới, sanh tử, các nhập, trần lao hư huyễn, siêu nhiên không nương tựa, tất cả không ràng buộc, đi ở không ngại, qua lại trong sanh tử như cửa mở.
Phàm người học đạo nếu gặp các thứ khổ vui, việc vừa ý không vừa ý, tâm không lui sụt, chẳng để tâm đến danh dự lợi dưỡng ăn mặc, chẳng tham tất cả công đức lợi ích, không bị các pháp thế gian buộc ngại, không thân mến khổ vui, tâm hằng bình đẳng, ăn cơm hẩm cốt nuôi mạng sống, mặc áo vá chỉ để ngừa lạnh, ngơ ngơ như ngu như điếc, sẽ được ít phần tương ưng. Nếu trong tâm ham học rộng biết nhiều, cầu phước cầu trí, đều là ở trong sanh tử, đối với lý đạo thật vô ích, lại bị gió hiểu biết thổi trôi giạt trở lại trong biển sanh tử.
Phật là người không cầu; có cầu tức trái lý, lý không cầu này nếu cầu liền mất. Nếu chấp không cầu, lại đồng có cầu. Nếu chấp vô vi, lại đồng hữu vi. Cho nên Kinh nói: “Không thủ pháp không thủ phi pháp, không thủ phi phi pháp.” Lại nói: “Như Lai đã được pháp, pháp này không thật không hư.”
Nếu người hay một lúc tâm giống như cây đá, không bị ấm, giới, ngũ dục, bát phong thổi trôi giạt, liền đoạn được nhân sanh tử, đi đứng tự do, chẳng bị tất cả hữu vi nhân quả ràng buộc, chẳng bị hữu lậu câu thúc. Khi khác, trở lại đem thân không phược làm lợi ích chúng sanh, lấy tâm không phược ứng hợp tất cả tâm, dùng tuệ không phược cởi tất cả phược, cũng nói “hợp bệnh cho thuốc”.
Tăng hỏi:
– Như nay thọ giới rồi thân khẩu được thanh tịnh, lại làm đủ các việc thiện, như thế được giải thoát chăng?
Ngài đáp:
– Ðược ít phần giải thoát, chưa được tâm giải thoát, chưa được tất cả chỗ giải thoát.
Tăng hỏi:
– Thế nào là tâm giải thoát và tất cả chỗ giải thoát?
Ngài đáp:
– Chẳng cầu Phật, Pháp, Tăng, cho đến chẳng cầu phước trí tri giải, tình cảm nhơ sạch hết, chẳng chấp tâm không cầu là phải, chẳng trụ chỗ hết, cũng chẳng mến thiên đường sợ địa ngục, trói buộc cởi mở không ngại, tức thân tâm và tất cả chỗ đều gọi giải thoát.
Ngươi chớ cho có ít phần giới thân khẩu ý tịnh là xong, đâu biết môn giới định tuệ như hà sa, mà vô lậu giải thoát toàn chưa dính một mảy.
Cố gắng! Nhằm hiện nay cố tìm xét lấy, đừng đợi mắt mờ tai điếc, tóc bạc, mặt nhăn, già khổ đến thân, buồn thảm triền miên mắt hằng rơi lệ, trong tâm hoảng sợ không một nơi y cứ, chẳng biết chỗ đi. Ðến khi ấy, muốn nghiêm chỉnh tay chân cũng không thể kềm được, dù có phước trí, danh dự, lợi dưỡng trọn không cứu được. Vì mắt tâm chưa mở, chỉ nhớ các cảnh, không biết phản chiếu, lại chẳng thấy Phật đạo. Một đời có tạo việc thiện ác thảy hiện ở trước, hoặc vui hoặc sợ, sáu đạo năm uẩn thảy bày hiện tiền. Trang sức nhà cửa ghe thuyền xe cộ đẹp đẽ hiển hách, đều từ tâm tham ái của mình hiện ra, tất cả cảnh ác đều biến thành cảnh thù thắng. Chỉ tùy tâm tham ái chỗ nào nặng, nghiệp thức dẫn đến thọ sanh, hoàn toàn không có phần tự do, rồng súc tốt xấu trọn chưa định được.
Tăng hỏi:
– Thế nào được phần tự do?
Ngài đáp:
– Hiện nay đối với ngũ dục bát phong lòng không lấy bỏ, xan tham, tật đố, tham ái, ngã sở đều hết, nhơ sạch chẳng còn, như mặt trời mặt trăng trong hư không, không duyên mà chiếu. Tâm tâm như cây đá, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, cũng như con voi lớn qua sông, vừa ùm xuống là đến bờ kia, không bị ngăn ngại. Người này không nhiếp thuộc về thiên đường hay địa ngục.
Phàm học kinh, xem giáo lý, mỗi câu đều phải uyển chuyển xoay về nơi mình, tất cả ngôn giáo chỉ làm sáng tỏ tánh giác hiện nay của mình. Chỉ không bị tất cả cảnh có, không… lôi là Ðạo Sư của người; hay chiếu phá tất cả cảnh có, không… là tuệ Kim Cang, tức có phần tự do tự tại. Nếu không như thế để hội đạo, dù có tụng được mười hai phần giáo cũng chỉ thành Tăng thượng mạn, lại là người chê bai Phật, không phải là người tu hành. Chỉ lìa tất cả thanh sắc, cũng chẳng trụ nơi lìa, chẳng trụ nơi tri giải, là người tu hành.
Ðọc kinh, xem giáo lý, nếu chiếu theo thế gian là việc tốt, nếu nhằm vào người minh lý thì thường đọc xem là kẻ bế tắc. Người Thập Địa vượt ra, không đi vào vòng sanh tử, nhưng giáo lý Tam Thừa để trị bệnh tham, sân… Như hiện nay niệm niệm nếu có bệnh tham, sân… thì trước phải trị nó, chẳng cần tìm cầu câu nghĩa hiểu biết. Hiểu biết thuộc về tham, tham thì trở thành bệnh. Như hiện nay chỉ lìa tất cả pháp có, không, cũng lìa cái lìa vượt ngoài ba câu (có, không, chẳng phải có chẳng phải không) tự nhiên cùng Phật không khác. Ðã tự là Phật, lo gì Phật không hiểu ngôn ngữ. Chỉ e không phải là Phật, bị các pháp có, không trói buộc chẳng được tự do.
Bởi lý chưa vững, trước có phước trí, bị phước trí chở đi, như người nghèo ở trong cảnh sang. Không bằng trước vững lý, sau mới có phước trí. Nếu cần phước trí thì tạm thời làm được, nắm đất biến thành vàng, nắm vàng biến thành đất, biến nước biển thành tô-lạc, đập núi Tu-di thành bụi nhỏ, hốt nước bốn biển dồn vào một lỗ chân lông, nơi một nghĩa làm vô lượng nghĩa, nơi vô lượng nghĩa làm một nghĩa.
oOo
Có vị Tăng hỏi:
– Cuốc cỏ chặt cây, khai mương đào đất, có tướng tội báo chăng?
Ngài đáp:
– Không thể nói quyết định có tội, cũng không thể nói quyết định không tội, có tội không tội việc tại người đương thời. Nếu tham nhiễm tất cả pháp có, không… có tâm lấy bỏ, còn chưa vượt khỏi ba câu, người này nhất định nói có tội. Nếu vượt ngoài ba câu, tâm như hư không, cũng chẳng tưởng hư không, người này nhất định nói không tội.
Lại nữa, nếu tạo tội rồi, nói không thấy có tội thì thật vô lý. Nếu không làm tội, mà nói có tội thì cũng vô lý. Như trong Luật, do mê giết người và chuyển tướng giết còn không phạm tội sát, huống là Thiền Tông truyền trao nhau Tâm như hư không, không dừng ở một vật, cũng không có tướng hư không, thì đem tội để ở chỗ nào?
oOo
Có vị Tăng hỏi:
– Thế nào là hữu tình không Phật tánh, vô tình có Phật tánh?
Ngài đáp:
– Từ người đến Phật là tình chấp thánh, từ người đến địa ngục là tình chấp phàm. Chỉ như hiện nay đối hai cảnh phàm, thánh có tâm nhiễm ái gọi là “hữu tình không Phật tánh”. Hiện nay đối hai cảnh phàm, thánh và tất cả pháp có, không… trọn không có tâm lấy bỏ, cũng không cái hiểu biết không lấy bỏ, ấy là “vô tình có Phật tánh”. Chỉ không có tình ràng buộc, nên gọi vô tình. Không đồng với loài vô tình như cây, đá, hư không, hoa vàng, trúc biếc, mà cho là có Phật tánh.
Nếu nói loài vô tình ấy có Phật tánh, tại sao trong kinh không thấy thọ ký được thành Phật? Chỉ cái giác chiếu soi hiện nay không bị hữu tình thay đổi, dụ như trúc biếc, ứng cơ biết thời thiết dụ như hoa vàng.
Lại, nếu bước lên nấc thang Phật thì vô tình có Phật tánh, chưa bước lên nấc thang Phật thì hữu tình không Phật tánh.
oOo
Hằng ngày lao tác, Ngài đều dẫn đầu trong Chúng. Một hôm, Chúng Tăng lén giấu dụng cụ không cho Ngài làm, Ngài tìm mãi không được, bảo:
– Tôi không có đức hạnh, đâu dám làm nhọc người.
Ngài nhịn ăn hôm ấy, nên có câu “một ngày không làm, một ngày không ăn” (nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực).
Ngài có soạn bộ quy tắc trong nhà thiền, lấy tên là “Bá Trượng Thanh Quy”.
Ðời Ðường niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ chín (814 T.L), ngày mười bảy tháng giêng, Ngài quy tịch, thọ 95 lăm tuổi. Vua ban hiệu là Ðại Trí Thiền Sư, tháp hiệu Ðại Bảo Thắng Luân. Đệ tử nối pháp của Ngài có Thiền Sư Hy Vận./.
Trên đây là một vài câu chuyện về Tổ Bá Trượng-một vị thiền sư của Trung Hoa mà thầy Nên phong thủy muốn chia sẻ đến bạn đọc. Chúc các bạn luôn tinh tấn.